Tuyết – Bài Haiku bạch khiết về sự hoà trộn của cái đẹp , tình yêu và nghệ thuật
Maxence Fermine , nhà văn Pháp 40 tuổi , một người Âu mà lại viết trong dòng chảy duy mỹ và duy cảm như các bậc thầy văn chương Nhật Bản . Và quả thực , cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Maxence , Tuyết chính là về đất nước Nhật với những vẻ đẹp phi thường đó .
Nước Nhật , cuối thế kỉ XIX . Chàng trai trẻ Yuko Akita nhạy cảm , tinh tế đã lựa cho mình con đường riêng khác hẳn với truyền thống vốn có của gia đình : hoặc trở thành chiến binh hoặc trở thành tu sĩ . Anh có hai nỗi đam mê lớn nhất , thơ haiku và tuyết . Anh muốn trở thành nhà thơ , để tôn thờ tuyết như cái đẹp vĩnh cữu và tuyệt đối của đời mình . Những bài haiku của anh nổi tiếng đến mức một ngày mùa xuân , một nhà thơ nổi danh trong triều Minh Trị đã tìm đến nhà anh để được “tận mục sở thị” . Bậc thầy nọ , sau khi đọc những bài thơ của anh , tuy rất thích nhưng vẫn băn khoăn bỏi thơ anh tuyền một sắc trắng vô vọng của tuyết . ngài bèn khuyên anh đến tầm sư học đạo ở chỗ thầy Soseki - bậc danh thi , danh nhạc , danh hoạ mù loà của nước Nhật . Trải bao gian nan , có lúc Akita tưởng chừng như không thể bước tiếp . Chính lúc ấy anh bắt gặp một người con gái Âu trong băng , hình ảnh đẹp và tinh khiết tuyệt vời sẽ ám ảnh Akita và trở thành nàng thơ của cả cuộc đời anh . Rốt cuộc , Akita cũng đến được nơi ở của thầy Soseki . Anh được nhận làm học trò của thầy . Ở đó , thầy Soseki đã dạy anh cảm thụ không gian , màu sắc và hình khối tự trong tâm hồn mình , để làm hoàn thiện bức hoạ tuyết bằng thơ haiku vô sắc . Cũng tại đó anh được nghe kể về mối tình đẹp như thơ song bất hạnh tột cùng của thầy Soseki với nàng Neige - nữ nghệ sĩ châu Âu đi trên dây . Anh biêt đó chính là người đàn bà trong băng kia . Thầy Soseki , sau khi nghe Akita kể lại chuyện đó , tuy lúc đầu do dự song cuối cùng vẫn nhờ anh đưa đến nấm mồ băng để nằm xuống bên cạnh tình yêu bất tuyệt của mình , mãi mãi , trong tuyết . Còn Akita trở về , lấy người con gái của thầy . Họ sống một cuộc đời bình dị hạnh phúc .
Tuyết của Maxence Fermine gồm 54 chương , vỏn vẹn trong hơn trăm trang giấy khổ nhỏ , thưa chữ . Mỗi chương lại có cấu trúc như một bài haiku . Và cả tiểu thuyết là một bài haiku lớn . Ngôn từ giản dị , tinh khiết như sắc trắng của tuyết , mát lạnh và trong veo như tuyết tan chảy .
Những nhân vật trong Tuyết đều là những tín đồ của cái đẹp . Dòng máu nghệ sĩ chảy trong họ , nung nấu nỗi đam mê và khát khao tìm kiếm cái đẹp . Akita say mê đến mức sùng bái tuyết . Chỉ anh mới nhìn thấy ở tuyết cái đẹp khơi nguồn nghệ thuật mà người thường , thậm chí ngay cả bậc thầy Soseki cũng không nhân thấy . “tuyết trắng , vậy đó là một bài thơ , một bài thơ vô cùng thuần khiết . Tuyết ngưng đọng và che chở thiên nhiên . Vậy đó là một bức tranh . Bức tranh tinh tuý nhất ,mùa đông . Tuyết biến đổi lien tục . Vậy đó là nghệ thuật thư pháp . Có hàng vạn , hàng vạn cách viết tuyết . Tuyết trơn trượt . Vậy đó là một vũ điệu . Trên mặt tuyết , tất cả mọi người đều là vũ công.” . Nàng Neige , ngừơi nghệ sĩ đi trên dây , có khuôn mặt “muôn muốt như tuyết” , cặp mắt “xanh như băng” , cũng là hiện thân của cái đẹp hoàn hảo và tinh khiết như tuyết mà cả Akita và Soseki đều tôn sung . Tất cả mọi nỗ lực trong thi ca , âm nhạc và hội họa của thầy Soseki đều chỉ hướng tới một mục đích duy nhất : tìm lại được vẻ đẹp như tuyết của khuôn mặt người vợ yêu không may tử nạn . Và , bài thơ bỗng chuyển thành bức hoạ của Akita thì anh gặp lại Hoa Xuân – con gái của Neige và thầy Soseki , người con gái anh yêu say đắm – chính là bức hoạ đẹp nhất “vẽ một người đi trên sợi dây cái đẹp”.
Tuyết của Maxence Fermine mang phong cách lịch lãm mà giản dị , với giọng điệu trung tính . Kết cấu cân đối , như một bông tuyết . Lối viết ngắn gọn và không ngữ điệu , song vẫn dày dặn chất trí tuệ và trải nghiệm . Cách sắp xếp câu , từ trong mỗi chương , mỗi đoạn thưa thớt như trong một bài thơ haiku , không thừa một từ .
Đọc Tuyết độc giả thấy thấm thía sâu sắc vẻ đẹp buốt nhói của tuyết , của tình yêu và của thơ haiku..Cuốn sách trăm trang lướt qua nhanh như bông tuyết tan , nhưng để lại dư âm da diết trong lòng người đọc.
Thơ Haiku
Haiku là một thể thơ hết sức độc đáo của Nhật Bản , ra đời vào thế kỷ 17 . Đây là thể thơ ngắn nhất thế giới , mỗi bài chỉ vỏn vẹn 17 âm tiết . Đề tài của thơ Haiku là bốn mùa xuân , hạ , thu , đông . Mỗi bài thơ đều không thể thiếu kigo hay quý ngữ - từ gọi tên hoặc gợi nhắc đến một mùa trong năm . Nếu thiếu thì đó không còn là Haiku nữa . Cái độc đáo của haiku còn ở chỗ nó không tả mà chỉ gợi lại khoảnh khắc nhà thơ tóm bắt được , thong qua hình ảnh . Nói cách khác , Haiku “không phải là một bộ phim dài dòng” mà là tấm ảnh chụp một khoảnh khắc xuất thần . Nghe như một bài thơ haiku như nghe “một tiếng khánh” , ngắn gọn nhưng âm vang . Vì thế , haiku hay được dung để sáng tác thơ thiền , khắc hoạ khoảnh khắc “đốn ngộ” . Trong tiếng Nhật , mỗi bài thơ haiku thường nằm gọn trong một dòng và hầu hết là vô đề . Khi dịch ra tiếng nước ngoài nó thường được ngắt thành ba dòng .
Matsuo Basho được coi là ông tổ cuả thơ haiku . Ông không chỉ là người sáng tạo ra thể thơ này mà còn là tác giả của những bài thơ kiệt xuất , gợi tả một cách sinh động vẻ đẹp cuộc sống từ những điều giản dị nhất và làm sống dậy sự nhạy cảm ở mỗi độc giả . Nhắc đến haiku là người ta nhắc đến Con ếch trong tập Xuân nhật ông từng viết chung với đồ đệ năm 1686 :
Ao cũ
Con ếch nhảy vào
Vang tiếng nước xao.
Một nhà nghiên cứu đã phát biểu rằng người quen với tư duy logic hoặc thiếu trí tưởng tượng sẽ đụng phải một bức tường khó hiểu . Bài thơ này chẳng đem lại gì cả . Nhưng toàn bộ khung cảnh đó , như màu và nét trong một bức tranh , cho ta cái cảm giác chung nằm ngoài ngôn từ ; sự tĩnh lặng , sự thanh khiết , cảnh giới giải thoát sự thanh thản . Nhờ đối xử với ngôn từ , khung cảnh như những vị khách , nhà thơ đã thành công trong việc miêu tả một cảm giác mà nhà văn khó lòng làm nổi…
số lượt người đã thăm blog
Thứ Sáu, 21 tháng 8, 2009
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét